Giải thích sự khác biệt giữa Chính sách tài khóa & Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đều quan trọng đối với nền kinh tế Mỹ. Mỗi cung cấp các cơ chế để ảnh hưởng đến tăng trưởng. Tại bất kỳ thời điểm nào, cả hai loại chính sách đều được sử dụng. Nhiều sự chú ý của truyền thông được dành cho các chỉ số kinh tế. Các nhà kinh tế liên tục dự đoán ý nghĩa của từng thay đổi thống kê. Chính sách tiền tệ và tài khóa được ban hành dựa trên những con số này. Mỗi người có một vai trò quan trọng không phải lúc nào cũng độc lập với nhau.
Định nghĩa
Chính sách tài khóa sử dụng thuế và thay đổi chi tiêu để tác động đến nền kinh tế. Ngân sách liên bang là cơ chế chi tiêu chính và phương tiện chính để tài trợ cho ngân sách là thuế. Khi số tiền thu được ít hơn số tiền được dự toán, quốc gia này được cho là đang bị thâm hụt và phát hành nợ (ghi chú và trái phiếu) để tạo ra sự khác biệt.
Chính sách tiền tệ cố gắng tác động đến nền kinh tế bằng cách thay đổi cung và cầu tiền. Cục Dự trữ Liên bang thay đổi lãi suất và yêu cầu dự trữ tiền gửi làm tăng và giảm số tiền có sẵn. Hoạt động kinh tế tăng hoặc giảm theo nguồn cung tiền sẵn có.
Lịch sử
Đạo luật Dự trữ Liên bang năm 1913 đã tạo ra Hệ thống Dự trữ Liên bang, bao gồm Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) và Ngân hàng Dự trữ Liên bang. Các hoạt động của Cục Dự trữ Liên bang đặc biệt gay gắt trong những biến động kinh tế lớn như suy thoái kinh tế. Kết quả của các quyết định chính sách của Ủy ban Dự trữ Liên bang đã trở nên ngày càng khó dự đoán do sự phức tạp gia tăng của nền kinh tế.
Quy trình lập ngân sách liên bang được điều chỉnh bởi Đạo luật Ngân sách Liên bang năm 1974. Mỗi năm, Tổng thống đề xuất chính sách thuế và chi tiêu được gọi là ngân sách của Ngân hàng. Họ sử dụng các quy tắc cụ thể để thông qua luật duy trì quy trình đã được thống nhất. Ví dụ: ngân sách phải tuân thủ quy tắc thanh toán khi bạn đi, yêu cầu chi tiêu tăng lên để được bù đắp bằng cách tăng doanh thu hoặc ngược lại.
Ý nghĩa
Việc sử dụng một trong hai chính sách có tác động trở lại đối với nền kinh tế và hệ thống tài chính của Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Ví dụ: tại địa phương, thay đổi lãi suất có thể xác định liệu một doanh nghiệp có thể trả một khoản vay mới hay giảm chi tiêu liên bang có thể làm giảm số tiền chi cho các khoản trợ cấp liên bang để xây dựng đường.
Sự ra đời của các phương tiện truyền thông 24 giờ đã mở ra các hoạt động của Cục Dự trữ Liên bang để kiểm tra và tranh luận liên tục. Ngày nay, các nhà phân tích làm việc hàng ngày để tìm hiểu, giải thích và báo cáo các hoạt động của tổ chức và các phản ứng kinh tế. Cục Dự trữ Liên bang này tính đến sự đầu cơ liên tục này khi xem xét các động thái chính sách.
Chức năng
Các quyết định liên quan đến cả hai loại chính sách tài chính và tiền tệ sẽ xem xét các hành động hiện tại và dự kiến trong tương lai của bên kia.
Hội đồng quản trị của Ngân hàng Dự trữ Liên bang xác định mức chiết khấu mà ngân hàng này tính cho các khoản vay. Giảm tỷ lệ chiết khấu làm tăng nhu cầu cho vay. Nhiều tiền hơn có sẵn trên thị trường dự kiến sẽ tăng hoạt động kinh tế. Tỷ lệ chiết khấu được trích dẫn và theo dõi rộng rãi vì các tổ chức khác sử dụng chúng làm cơ sở cho các mức giá khác. Ví dụ: các ngân hàng thương mại có thể phát hành hạn mức tín dụng cho một doanh nghiệp bằng với tỷ lệ chiết khấu cộng với một tỷ lệ phần trăm cụ thể. Điều này giúp ngân hàng thương mại trang trải chi phí tiền bạc mà vẫn kiếm được lợi nhuận.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang cũng kiểm soát các yêu cầu dự trữ: số tiền tối thiểu phải được dự trữ tại các ngân hàng. Ngân hàng Dự trữ Liên bang trả lãi cho các khoản tiền được giữ trong dự trữ. Tăng yêu cầu dự trữ làm giảm lượng tiền có sẵn trên thị trường. Giảm cung tiền làm cho tiền có giá trị hơn.
FOMC mua và bán chứng khoán Kho bạc Hoa Kỳ. Các giao dịch FOMC ảnh hưởng đến lãi suất quỹ liên bang, đó là lãi suất cho vay đối với các khoản tiền được tổ chức qua đêm tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang. Việc tăng lãi suất quỹ liên bang khiến cho việc vay tiền trở nên đắt đỏ hơn, do đó thắt chặt số tiền có sẵn để đầu tư. Giảm tỷ lệ khuyến khích tăng trưởng kinh tế.
Khi thâm hụt liên bang thay đổi, khả năng tăng trưởng của đất nước sẽ thay đổi. Vay mượn từ các quốc gia khác khiến Hoa Kỳ có nguy cơ không thể trả hết các khoản vay. Mặt khác, nhiều chương trình liên bang làm tăng sự thịnh vượng của người Mỹ và cho phép tăng trưởng.
Lý thuyết / Đầu cơ
Nhiều cuộc thảo luận chính trị xảy ra về việc sử dụng và hiệu quả của cả hai chính sách. Nhiều yếu tố liên quan đến việc thực hiện các chính sách gây khó khăn cho việc đánh giá hiệu quả của chúng. Các tình huống đặc biệt như suy thoái kinh tế kéo dài làm cho khó dự đoán hậu quả của một trong hai chính sách.