Công cụ phân tích báo cáo tài chính

Báo cáo tài chính là công cụ thiết yếu được sử dụng để phân tích hiệu suất của công ty. Quản lý sử dụng một số kỹ thuật để xác định tình trạng tài chính của công ty và đưa ra quyết định liên quan đến các cải tiến.

Các loại báo cáo tài chính

Kế toán thường lập bốn loại báo cáo tài chính cho từng kỳ báo cáo:

Báo cáo thu nhập: Tất cả các khoản thu và chi phí của công ty được báo cáo trên báo cáo thu nhập. Thời gian báo cáo có thể là một tháng, quý, năm hoặc năm. Kế toán sử dụng Nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung để ghi lại các chi tiết đơn hàng này. Đối với hầu hết các báo cáo kinh doanh, việc ghi lại doanh thu và chi phí là trên cơ sở dồn tích. Phương pháp kế toán này tính toán các khoản thu và khớp với các chi phí liên quan cùng một lúc. Ví dụ, một giao dịch bán được ghi lại tại thời điểm giao dịch, ngay cả khi nó được bán bằng tín dụng và tiền mặt không được thu thập cho đến vài tháng sau đó.

Phương pháp kế toán khác là cơ sở tiền mặt. Phương pháp này chỉ nhận ra các giao dịch khi tiền mặt đổi chủ.

Bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán là danh sách tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của công ty tại một thời điểm cụ thể. Trên tuyên bố này, tài sản bằng tổng số nợ của công ty và vốn chủ sở hữu của cổ đông.

Tài sản được liệt kê theo thứ tự thanh khoản từ tiền mặt trong ngân hàng đến các khoản phải thu và hàng tồn kho và cuối cùng là tài sản cố định và dài hạn. Nợ phải trả được liệt kê theo ngày đáo hạn từ tín dụng thương mại ngắn hạn và ghi chú ngân hàng thông qua các khoản thế chấp và trái phiếu dài hạn.

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo này thể hiện dòng tiền và dòng tiền của công ty trong một khoảng thời gian. Nó khác với báo cáo thu nhập, ghi lại tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Một báo cáo thu nhập cũng chứa các mục không dùng tiền mặt, chẳng hạn như khấu hao thiết bị, ảnh hưởng đến lợi nhuận nhưng không mô tả chính xác dòng tiền.

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho thấy liệu công ty nhận ra tiền mặt tích cực hay tiêu cực từ các giao dịch của mình. Nó ghi lại ba loại hoạt động: dòng tiền từ hoạt động, dòng tiền từ đầu tư và dòng tiền từ hoạt động tài chính. Sự phân tách giữa các loại dòng tiền khác nhau cho phép nhà phân tích xác định xem một công ty có tạo ra dòng tiền dương từ hoạt động của mình hay đang vay tiền để thanh toán hóa đơn.

Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu của cổ đông: Báo cáo này kết nối hiệu suất lợi nhuận từ báo cáo thu nhập với bảng cân đối. Báo cáo vốn chủ sở hữu của cổ đông bắt đầu bằng việc thêm thu nhập ròng vào phần vốn chủ sở hữu của bảng cân đối kế toán và trừ đi mọi phân phối cổ tức. Số tiền còn lại sau khi trả cổ tức được giữ trong doanh nghiệp và được thêm vào tài khoản thu nhập giữ lại.

Báo cáo vốn chủ sở hữu của các cổ đông cũng ghi nhận bất kỳ bổ sung hoặc giảm các khoản góp vốn. Số tiền thu được từ việc phát hành cổ phiếu mới hoặc mua lại cổ phiếu được ghi chi tiết trong tài khoản vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán.

Kỹ thuật phân tích tài chính

Phân tích dọc: Phân tích dọc có nghĩa là xem xét báo cáo tài chính của công ty trong một kỳ báo cáo tài chính. Thông thường, tất cả các khoản mục doanh thu và chi phí trên báo cáo thu nhập được báo cáo là tỷ lệ phần trăm của doanh thu thuần.

Giả sử doanh số của một công ty là 1, 2 triệu đô la và lương hành chính là 96.000 đô la. Tỷ lệ phần trăm sẽ là 96.000 đô la chia cho 1.200.000 đô la gấp 100 lần, hoặc 8%. Con số này có thể được so sánh với số tiền ngân sách dự kiến ​​hoặc tỷ lệ phần trăm của năm ngoái để đánh giá xem điều này tốt hay xấu.

Phân tích theo chiều ngang: Việc so sánh dữ liệu tài chính giữa hai giai đoạn là phân tích theo chiều ngang. Tài khoản doanh thu và chi phí được kiểm tra để xác định các thay đổi từ thời kỳ này sang giai đoạn khác. Những thay đổi này thường được thể hiện dưới dạng phần trăm.

Ví dụ: giả sử doanh số của một công ty trong một khoảng thời gian là 768.000 đô la và tăng lên 940.000 đô la trong giai đoạn tiếp theo. Số tiền tăng doanh số là $ 172.000. Mức tăng phần trăm sẽ là $ 172.000 chia cho $ 768.000 lần 100, tương đương 22, 4 phần trăm.

Phân tích xu hướng: Việc so sánh ba hoặc nhiều kỳ báo cáo tài chính có thể bắt đầu xác định xu hướng. Quản lý đặc biệt quan tâm đến xu hướng. Ví dụ, các nhà quản lý muốn thấy xu hướng bán hàng tăng lên và chi phí giảm xuống; những chuyển động thuận lợi này dẫn đến tăng lợi nhuận.

Phân tích tỷ số: Phương pháp phân tích tài chính phổ biến nhất liên quan đến việc tính toán các tỷ số từ báo cáo thu nhập và bảng cân đối. Các tỷ số tài chính được sử dụng để phân tích tính thanh khoản, lợi nhuận, đòn bẩy tài chính và vòng quay tài sản của một công ty.

Các tỷ lệ được tính cho một loạt các giai đoạn báo cáo để xác định xu hướng tích cực hoặc tiêu cực theo thời gian. Tỷ lệ của một công ty cũng có thể được so sánh với tỷ lệ chuẩn được báo cáo bởi các công ty khác trong cùng ngành. Việc so sánh các tỷ lệ của một công ty với các số liệu thống kê của ngành cho thấy liệu doanh nghiệp có hoạt động kém hay vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh hay không.

Công cụ phân tích tài chính

Tỷ số là các công cụ truyền thống được sử dụng để phân tích báo cáo tài chính. Phân tích tỷ lệ kiểm tra bốn khía cạnh của tình trạng tài chính và hiệu suất của công ty: lợi nhuận, thanh khoản, đòn bẩy tài chính và hiệu quả.

Lợi nhuận

Mục tiêu cuối cùng của một doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Không có lợi nhuận, một công ty chết; vì vậy tỷ suất lợi nhuận là số liệu rất quan trọng.

Biên lợi nhuận ròng: Thước đo lợi nhuận phổ biến nhất là tỷ suất lợi nhuận ròng. Đây là số tiền còn lại sau khi thanh toán tất cả các chi phí, bao gồm cả chi phí, lãi và thuế.

Biên lợi nhuận ròng thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm và được tính bằng cách chia số tiền lãi tính bằng đô la cho tổng doanh thu. Con số phần trăm này sau đó có thể được theo dõi để xác định xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, hoặc so sánh với các công ty tương tự như một thước đo về vị thế cạnh tranh của công ty trong ngành. Tỷ suất lợi nhuận ròng có thể dao động từ 1 đến 2%, như các cửa hàng tạp hóa bán lẻ, lên tới 20% cho các công ty như tổ chức tài chính và nhà sản xuất dược phẩm.

Biên lợi nhuận gộp: Biên lợi nhuận gộp đo lường hiệu quả sản xuất của các sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty. Nó được tính bằng cách trừ chi phí sản xuất trực tiếp vào tổng doanh thu. Chi phí trực tiếp là nhân công, vật liệu, vật tư vận hành và chi phí thiết bị.

Các nhà quản lý theo dõi tỷ lệ phần trăm lợi nhuận gộp để xác định các tác động của việc tăng giá bán hoặc tăng năng suất lao động và giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.

Biên lợi nhuận hoạt động: Biên lợi nhuận hoạt động là một thước đo khác về hiệu quả hoạt động của một công ty. Đây là một tính toán lợi nhuận trước khi khấu trừ lãi và thuế, do đó loại bỏ ảnh hưởng của chi phí tài chính và kế hoạch thuế.

Thanh khoản

Lợi nhuận là rất cần thiết, nhưng cần có thanh khoản và tiền mặt để thanh toán hóa đơn.

Tỷ lệ hiện tại: Một thước đo thanh khoản là tỷ lệ tài sản hiện tại so với nợ ngắn hạn. Đơn giản chỉ cần chia tổng tài sản hiện tại cho tổng nợ phải trả hiện tại. Tỷ lệ thanh khoản thoải mái là 2: 1.

Vốn lưu động: Vốn lưu động được tìm thấy bằng cách trừ các khoản nợ hiện tại khỏi tài sản hiện tại. Các nhà quản lý có thể tính toán con số này hàng tháng và họ muốn thấy nó luôn tăng lên.

Đòn bẩy tài chính

Trong khi có một số nợ là tốt, quá nhiều nợ là rủi ro.

Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu: Nhìn chung, chi phí vốn cổ phần cao hơn chi phí lãi vay của khoản nợ. Nhưng mức nợ cao hơn khiến doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro hơn trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu được tính bằng cách chia tổng nợ của một công ty, cả dài hạn và ngắn hạn, cho tổng vốn chủ sở hữu.

Hiệu quả

Quản lý luôn cố gắng để đạt được lợi nhuận tốt hơn trên tài sản của mình. Tỷ lệ doanh thu là một cách để đo lường việc sử dụng tài sản hiệu quả.

Vòng quay khoản phải thu: Tỷ lệ này được tính bằng cách chia tổng doanh thu cho số dư trong các khoản phải thu. Nó là thước đo hiệu quả của quy trình thu gom và điều khoản bán hàng của công ty. Tỷ lệ doanh thu cao hơn có nghĩa là hàng hóa được bán và tiền mặt nhanh chóng được thu thập, làm cho nó có sẵn để tài trợ cho doanh số bán hàng nhiều hơn. Tỷ lệ doanh thu thấp hơn có thể cho thấy công ty đang gặp vấn đề trong việc thu các khoản phải thu hoặc điều khoản tín dụng của công ty quá khoan dung.

Vòng quay hàng tồn kho: Tỷ lệ vòng quay hàng tồn kho đo lường số lần hàng tồn kho được bán và thay thế trong một năm. Tỷ lệ cao hơn là tốt hơn, bởi vì nó có nghĩa là ít tiền được đầu tư vào hàng tồn kho. Tỷ lệ doanh thu thấp hơn có thể có nghĩa là sản phẩm đã lỗi thời và phải được bán với giá thấp hơn hoặc hoàn toàn bị xóa sổ.

Bài ViếT Phổ BiếN